Home Thông tin du lịch Tin tức du lịch Tìm Hiểu An Nam Tứ Đại Khí- Smile Travel

Tìm Hiểu An Nam Tứ Đại Khí- Smile Travel

110


An Nam tứ đại khí (bốn vật quốc bảo)

An Nam tứ đại khí, là bốn kỳ quan, bốn vật quốc bảo và là bốn công trình nghệ thuật bằng đồng của văn hóa thời Lý, Trần bao gồm:

  • Vạc Phổ Minh ở chùa Phổ Minh, Thiên Trường (Nam Định).
  • Chuông Quy Điền (chuông ruộng rùa) ở chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), Hà Nội
  • Tháp Báo Thiên ở Thăng Long (Hà Nội)
  • Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm (Chùa Quỳnh Lâm, Đông Triều, Quảng Ninh);
Bốn bảo vật quốc gia nằm trong "An Nam tứ đại khí" do 2 triều đại phong kiến Lý - Trần sáng tạo ra.

Bốn bảo vật quốc gia nằm trong “An Nam tứ đại khí” do 2 triều đại phong kiến Lý – Trần sáng tạo ra.

Mặc dù đều là những vật quốc bảo song khi giặc Minh sang xâm chiếm nước ta, tứ đại khí đều bị cướp hoặc phá huỷ để lấy đồng đúc vũ khí và nhằm làm mất đi một phần “nguyên khí” của người Việt.

Vạc Phổ Minh

Vạc Phổ Minh được đúc vào tháng 2 năm Nhâm Tuất (1262) đời Trần Thánh Tông, nhân dịp Trần Thái Tông (lúc đó là Thượng hoàng) về chơi Tức Mặc (nay thuộc về tỉnh Nam Định). Tại đây, Trần Thái Tông đã ban yến cho dân làng. Các hương lão từ 60 tuổi trở lên được ban tước hai tư, lão bà thì được hai tấm lụa. Nhân đấy, đổi Tức Mặc làm phủ Thiên Trường. Dựng cung Trùng Quang để các vua sau khi đã nhường ngôi về ở; lại dựng một cung riêng gọi là cung Trùng Hoa cho Tự quân (vua mới) khi đến chầu Thượng hoàng thì ngự ở đó. Đặt người chức dịch ở hai cung ấy để phòng khi sai khiến, hầu hạ và chức lưu thủ để trông coi. Phía Tây cung Trùng Quang dựng chùa Phổ Minh. Tại đây cho đúc một chiếc vạc lớn và khắc bài minh vào vạc.

Bốn bảo vật quốc gia nằm trong "An Nam tứ đại khí" do 2 triều đại phong kiến Lý - Trần sáng tạo ra.

Bốn bảo vật quốc gia nằm trong “An Nam tứ đại khí” do 2 triều đại phong kiến Lý – Trần sáng tạo ra.

Vạc Phổ Minh- Bản sao quốc bảo nhà Trần ở chùa Tam Chúc

Vạc Phổ Minh- Bản sao quốc bảo nhà Trần ở chùa Tam Chúc Ảnh: Trung Nghĩa
Chiếc vạc đen phía trước đại điện của chùa Tam Chúc mô phỏng lại vạc Phổ Minh, một trong tứ đại khí An Nam. Vạc được chế tác từ 22 tấn đồng, với đường kính 4 m, tương đương chiều cao, kích cỡ, cân nặng so với bản gốc.

Vạc sâu 4 thước, rộng 10 thước, nặng 6150 cân. Tương truyền, miệng vạc dày và rộng đến nỗi hai người có thể chạy nhảy và đi lại trên đó. Cùng với chuông Quy Điền, tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) khi bị vây ở Đông Quan, Vương Thông đã cho phá vạc Phổ Minh để lấy đồng đúc vũ khí. Hiện nay tại chùa Phổ Minh chỉ còn lại bệ đá kê vạc khi xưa.

Chuông Quy Điền

Chuông Quy Điền được đúc trong lần sửa lại chùa Diên Hựu (chùa Một Cột, Hà Nội) vào tháng 2 năm Canh Thân (1080) đời Lý Nhân Tông. Để đúc quả chuông này, vua Lý Nhân Tông đã cho sử dụng đến 12.000 cân đồng (tương đương với 7,3 tấn đồng bây giờ). Chuông đúc xong, đánh không kêu, nhưng cho rằng nó đã thành khí, không nên tiêu hủy, nhà vua bèn sai người vần ra khu ruộng sau chùa.

Bốn bảo vật quốc gia nằm trong "An Nam tứ đại khí" do 2 triều đại phong kiến Lý - Trần sáng tạo ra.

chùa Một Cột

Vì khu ruộng này thấp trũng, có nhiều rùa đến ở, nên có tên là Quy Điền (ruộng Rùa), nhân đó gọi chuông là chuông Quy Điền. Tháng 10 năm Bính Ngọ (1426), chuông Quy Điền đã bị Vương Thông (nhà Minh) cho phá hủy để chế tạo súng đạn, hỏa khí.

Tháp Báo Thiên

Tháp Báo Thiên có tên gọi đầy đủ là Đại thắng tư Thiên Bảo Tháp, được xây cất vào năm Đinh Dậu (1057) đời Lý Thánh Tông. Tháp cao 20 trượng (khoảng 70 m) và gồm 30 tầng (có tài liệu chép là 12 tầng), nằm trong khuôn viên chùa Sùng Khánh ở phường Báo Thiên (nay ở vào khoảng bên phải đền Lý Quốc Sư đến đầu phố Nhà Chung, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội) nên còn gọi là tháp Báo Thiên.

Lý do để tháp được coi là một trong tứ đại khí do có số tầng chẵn biểu thị sự cân bằng, ổn định, tĩnh tại, bền vững như triều đình nhà Lý đầy khí thế, sẽ tồn tại dài lâu. Ngọn tháp đúc bằng đồng khắc ba chữ Đao Ly Thiên tỏ ý tưởng của đấng tối cao xông lên tận trời thẳm. Đỉnh tháp có tượng người tiên bưng mâm ngọc hứng móc ngọt làm thuốc cho vua; vì thế, được Nho thần danh sĩ miêu tả là: “Trấn áp đông tây cũng đế kỳ/Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy/Sơn hà bất động kình thiên trụ/Kim cổ nan nan lập địa chùng?. Dịch: (Trấn giữ đông tây vững đế kỳ/Tháp cao sừng sững thật uy nghi/Là cột chống trời yên đất nước/Vượt mọi thời gian chẳng sợ gì”.

Bốn bảo vật quốc gia nằm trong "An Nam tứ đại khí" do 2 triều đại phong kiến Lý - Trần sáng tạo ra.

Bốn bảo vật quốc gia nằm trong “An Nam tứ đại khí” do 2 triều đại phong kiến Lý – Trần sáng tạo ra.

Bốn bảo vật quốc gia nằm trong "An Nam tứ đại khí" do 2 triều đại phong kiến Lý - Trần sáng tạo ra.

Bốn bảo vật quốc gia nằm trong “An Nam tứ đại khí” do 2 triều đại phong kiến Lý – Trần sáng tạo ra.

Tuy nhiên, trận bão năm Mậu Ngọ (1258) đời Trần Thánh Tông đã làm ngọn tháp này bị đổ! Sau khi được trùng tu, tháp lại bị sét đánh sạt mất hai tầng về góc bên đông vào năm Nhâm Tuất (1322) đời Trần Minh Tông. Đến tháng 6 năm Bính Tuất (1406) đời Hồ Hán Thương (84 năm sau khi được trùng tu lần thứ hai) đỉnh tháp lại bị đổ. Thời thuộc Minh (1414-1427), quân Minh đã cho phá tháp để chế súng. Chỗ tháp bị phá sau đó được đổ đất thành gò cao để dựng đàn tràng.

Vì thế có bài ca của các bậc nho sĩ thuật rằng:

Trấn áp đông tây vững đế kỳ

Khuynh  thiên nhất tháp độc nguy nguy

Sơn hà bất động kình thiên trụ

Kim cổ nan nan lập địa chủng

Tức:

Trấn giữ đông tây vững đế kỳ

Tháp cao sừng sững thật uy nghi

Làm cột trống trời yên đất nước

Vượt mọi thời gian chẳng sợ gì.

Tượng Phật Quỳnh Lâm

Chùa Quỳnh Lâm có hai pho tượng lớn được đúc vào hai thời kỳ khác nhau. Một pho thời Lý do sư Nguyễn Minh Không cho đúc, và pho thứ hai thời Trần do thiền sư Pháp Loa tạo dựng. Pho tượng được liệt trong Thiên Nam tứ đại khí theo nhiều ý kiến có lẽ là pho được đúc vào thời Lý. Theo lịch sử thì nhà sư có công xây dựng chùa Quỳnh Lâm đầu tiên là sư Minh Không. Truyền thuyết kể rằng, khi đúc pho tượng khổng lồ ở chùa Quỳnh Lâm, sư Minh Không đã dùng một cái túi lớn để thu gom đồng ở Trung Quốc đem về nước đúc nên các vật kim loại lớn. Theo các tài liệu còn lại thì pho tượng Phật Di Lặc ở chùa Quỳnh Lâm thời Lý cao 6 trượng (một trượng xấp xỉ 3,3 m, tức là pho tượng cao khoảng 20 m). Các tượng đồng cổ ở Việt Nam được coi là lớn nhất hiện nay: Tượng thánh Trấn Vũ đền Quán Thánh, Hà Nội đúc năm 1667 cao 3,7 m nặng 4 tấn; tượng phật A Di Đà chùa Ngũ Xã, Hà Nội đúc năm 1949 – 1952 cao 3,95 m, nặng hơn 10 tấn; tượng A Di Đà lớn nhất còn lại ở Quảng Ninh ở chùa Nhuệ Hổ, Đông Triều cao 1,45 m, đúc thời Lê. Chỉ có điều không còn cứ liệu để ước định tượng nặng bao nhiêu. Pho tượng lớn đến nỗi người ta phải xây dựng một tòa điện cao 7 trượng (khoảng 23,5 m) để đặt tượng. Chính vì chiều cao, độ lớn của tượng và điện chứa tượng nên tục truyền rằng, đứng phía nam thị xã Đông Triều, cách chùa Quỳnh Lâm ước chừng 10 dặm, vẫn còn thấy nóc điện che sát đầu pho tượng. Trong dân gian còn lưu truyền câu ca: Nức tiếng Quỳnh Lâm cõi xứ Đông – (….) – Tháp cao chín đợt màu mây ám – Chùa rộng trăm gian gác ngựa hồng – Trước điện thông reo cùng trúc hóa – Trong am khánh đá với chuông đồng… Chắc hẳn trong câu ca này hàm ý đến tòa điện đặt pho tượng khổng lồ trên. Sau đó không rõ tượng mất khi nào, có thể tượng bị mất cùng với ba thứ kim khí lớn khác khi quân Minh xâm lược nước ta. Ý kiến khác cho rằng, tượng bị mất từ khi quân Nguyên Mông sang xâm chiếm nước ta bởi vì sau đó sư Pháp Loa cho đúc một pho tượng lớn tương tự.

Bốn bảo vật quốc gia nằm trong "An Nam tứ đại khí" do 2 triều đại phong kiến Lý - Trần sáng tạo ra.

sư Minh Không

Bốn bảo vật quốc gia nằm trong "An Nam tứ đại khí" do 2 triều đại phong kiến Lý - Trần sáng tạo ra.

Tượng Phật tại Chùa Quỳnh Lâm

>>> Link Photo Chùa Quỳnh Lâm 2021

Pho tượng Phật lớn thứ hai của Quỳnh Lâm cũng là tượng Di Lặc được thiền sư Pháp Loa – ông tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm, cho đúc. Tượng được đúc xong từ năm 1327. Năm 1328, nhân dịp vua Trần Minh Tông đến thăm chùa, sư Pháp Loa đã tâu xin cho kéo tượng từ điện lên bảo tọa để dát vàng. Văn Huệ Vương Trần Quang Triều, chủ soái của Bích Động thi xã và người chị ruột, công chúa Thượng Trân, vợ vua Trần Anh Tông đã cúng vào chùa 900 lượng vàng để đúc tượng. Tượng cũng bị mất vào thế kỷ 15 khi quân Minh sang xâm chiếm nước ta, chúng đã phá tượng để đúc súng đạn. Truyền thuyết dân gian nói rằng, giặc mang tới 24 bễ đến định thổi đồng đúc đạn nhưng thổi không được, còn bia chùa thì ghi tượng trầm trầm tại hạ (chìm dần xuống đất).

Hai pho tượng đồng lớn thời Lý, Trần không những chứng tỏ trình độ đúc đồng đạt đến đỉnh cao mà còn nói lên những hoài bão to lớn của người Việt trong việc xây dựng những công trình lớn.

Tóm tắt: Tượng chùa Quỳnh Lâm thuộc chùa Quỳnh Lâm, Khu Hạ 2, phường Tràng An,thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh là một trong những ngôi chùa nổi tiếng bậc nhất đời Trần. Tương truyền, tượng cao đến 6 trượng (khoảng 20 m). Thời giặc Minh xâm lược nước ta (1407-1427), chùa bị phá hủy, pho tượng bị cướp mang đi. Đầu thời Lê, chùa Quỳnh Lâm được dựng lại, nhưng đến đời Thiệu Trị (1841-1847) lại bị đốt trụi.

Có bài ca rằng:

Nức tiếng Quỳnh Lâm cõi sứ đông

Tháp cao chín đợt màu mây ám

Chùa rộng trăm gian gác ngựa hồng

Trước điện thông reo cùng trúc hóa

Trong am khánh đá với chuông đồng

Theo WiKi

 

Tác giả: Hồng Liên

Nếu mỗi nền văn hóa lâu đời đều gắn liền với những bảo vật linh thiêng, tựa như Nhật Bản có “Tam Chủng Thần Khí”, Trung Hoa có “Trấn Quốc Chi Bảo”, hay Triều Tiên có “Thiên Phù Tam Ấn”, thì Việt Nam cũng tự hào nhắc đến bốn báu vật thần thánh – “An Nam Tứ Đại Khí”.

An Nam Tứ Đại Khí còn được gọi là Nam Thiên Tứ Bảo Khí, hay Nam Thiên Tứ Đại Thần Khí, gồm có: tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, tháp Báo Thiên, chuông Ngân Thiên (có tài liệu nói là chuông Quy Điền), và vạc Phổ Minh. Đây được coi là 4 kỳ quan, 4 quốc bảo, 4 công trình nghệ thuật dưới thời Lý, Trần.

Vậy thì, vì sao chúng được tôn vinh là “đại khí”, “bảo khí”, hay “thần khí” – nghĩa là những báu vật có thể chấn hưng cả một quốc gia, quyết định đến sự phồn vinh hay suy vong của cả một dân tộc? Chắc hẳn câu trả lời sẽ không chỉ giới hạn ở mức độ bề thế của quy mô, mức độ tinh xảo của nghệ thuật, hay mức độ vĩ đại của tinh hoa và văn hoá. Mà sâu xa hơn, nó còn ẩn chứa nhiều bí mật của cả 4000 năm lịch sử.

Và nếu nhìn lại những “bộ tứ” của Đại Việt, ta có thể thấy tất cả đều là những bậc thánh thần. Ví như An Nam Tứ Bất Tử thờ 4 vị thánh linh thiêng; Hoa Lư Tứ Trấn thờ bốn vị thần trấn giữ các hướng đông, tây, nam, bắc của vùng đất cố đô; hay Thăng Long Tứ Trấn là 4 ngôi đền thiêng thờ các vị đại thần bảo vệ cho kinh thành.

Phải chăng An Nam Tứ Đại Khí cũng cần mang trong mình những yếu tố linh thiêng và cao quý nhường ấy, mới có thể được coi là vật báu chấn hưng dân tộc Việt?

Nhưng có lật giở cả Đại Việt sử ký toàn thư cũng không tìm được lời giải thích cho sự ra đời của tứ đại khí này. Có chăng, thì những cái tên như tháp Báo Thiên, vạc Phổ Minh, hay chùa Quỳnh Lâm chỉ lác đác xuất hiện đôi lần như một công trình nghệ thuật hay một di tích bị tàn phá bởi chiến tranh. Chính sử dường như vẫn luôn tránh né những câu chuyện mang yếu tố thần thoại, trong khi huyền sử lại chỉ được chắp nối qua những lưu truyền và ghi chép dân gian.

Bởi vậy, để tìm lời giải thích cho bốn báu vật nói trên, chúng ta hãy lần theo những truyền thuyết xưa còn để lại. Cho dù nó mang sắc màu huyền thoại, cho dù nó có những yếu tố tâm linh khó giải thích bằng lời, thì dẫu sao đó vẫn là một phần của lịch sử mà dân gian vẫn gìn giữ cho chúng ta đến ngày hôm nay.

Câu chuyện bắt đầu từ thời vua Thần Nông khoảng 5000 năm trước đây. Sau khi thống nhất sơn hà, Thần Nông làm phép thu linh khí Hoa Hạ xuống núi Thái Sơn, khiến đồng đen trong lòng núi Thái Sơn kết tinh thành trâu vàng của Trung Hoa. Khi thiên hạ thanh bình hoặc khi có chúa thánh ra đời, thì vào những đêm trăng sáng, trâu vàng lại ra khỏi núi, bay lơ lửng trên không trung, toả sáng cả một vùng.

Núi Thái Sơn vốn là nơi có mỏ đồng đen quý hiếm. Các thầy phong thuỷ Trung Hoa cho rằng đồng đen là mẹ của vàng, bởi vậy các đời vua đều thu thập đồng đen ở Thái Sơn đem cất vào kho, rồi làm phép cho trâu vàng không được rời khỏi núi.

Thời nhà Đường, vua Đường Ý Tông sai Cao Biền sang làm tiết độ sứ tại nước ta. Cao Biền sớm nhận thấy linh khí phương nam cường thịnh nên đã trấn yểm các thế đất, thu tất cả tinh hoa linh khí của Đại Việt vào bụng 36 con trâu vàng rồi đem về giam dưới núi Thái Sơn cùng với con trâu vàng của Hoa Hạ.

Đến đời vua Tống Thái Tông, sau khi bại trận trước quân ta ở Chi Lăng và Bạch Đằng, vua Tống sai đào trâu mang về yểm ở hoàng cung, trong đó có cả con trâu vàng Trung Hoa và 36 con trâu vàng giữ linh khí Đại Việt.

Sau đó, khi hai vị thánh tăng của Đại Việt là Nguyễn Minh Không và Từ Đạo Hạnh vân du đến Trung thổ, các vị đã giúp nhà Tống trừ tà tại hoàng cung nên được vua Tống ban thưởng đồng đen. Hai vị thánh tăng đã làm phép thu hết cả kho đồng đen, đồng thời lấy lại 36 con trâu vàng có chứa tinh anh của dân tộc Việt. Từ đó, linh khí Đại Việt lại rực sáng cả trời nam.

Sau khi trở về, Nguyễn Minh Không và Từ Đạo Hạnh đã dùng số đồng đen thu được đúc thành bốn bảo khí giữ nước, được gọi là Nam Thiên Tứ Đại Thần Khí.

 

Bởi vì đồng đen là tinh hoa trên núi Thái Sơn, mang trong mình linh khí của trời đất, vậy nên tứ bảo khí của Đại Việt, một cách tự nhiên, đã mang trong mình một sức mạnh thần kỳ.

***

Đến đây ta có thể thấy những yếu tố linh thiêng làm nên Tứ Đại Khí của mảnh đất An Nam. Nó thần thánh, bởi nó được tạo nên từ hai vị thánh tăng bất tử của Đại Việt – Nguyễn Minh Không và Từ Đạo Hạnh. Nó thần thánh, bởi nó hội tụ tất cả linh khí và tinh hoa của 4000 năm lịch sử dân tộc. Và nó thần thánh, bởi đó là những pháp khí gắn liền với Phật và Thần.

Trải qua bao phong ba tuế nguyệt, An Nam Tứ Đại Khí đã chứng kiến những trang sử hào hùng của hai thời Lý, Trần. Người ta nói Lý-Trần là hai thời đại huy hoàng của Đại Việt bởi đây là những triều đại tôn vinh Phật Pháp, coi Phật giáo là quốc pháp cai trị đất nước, và ngay cả nhiều vị vua cũng xuất gia tu hành. Đây cũng là thời kỳ mà những bậc anh tài đã xuất hiện làm rạng rỡ non sông, như Lý Thường Kiệt, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, v.v. Có lẽ cũng còn một lý do để tin rằng, trang sử huy hoàng đó có đóng góp không nhỏ của 4 bảo khí đất An Nam…

Nguồn: Đại Kỷ Nguyên

 

 

 

SMILE TRAVEL Co.,LTD
? Văn phòng GD: Số 4 Ngõ 266 Nguyễn Văn Cừ, Long Biên, HN.
? E-mail: info@smiletravel.com.vn ? Tel:  024.66.86.62.87
? Hotline tư vấn 24/7: 0️869 167 868
? Dịch Vụ Tour: 0865 283 168 – 0865 238 168
? Dịch Vụ Visa:  0988 989 973 – 0865 382 168
? Website: www.smiletravel.com.vn or www.tourduthuyenhalong.vn



Source link